Ung thư da là sự tăng trưởng không bình thường và không kiểm soát của tế bào trong lớp biểu mô da che phủ bề mặt của cơ thể. Nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sót sau 5 năm vượt qua 90%.
Ung thư da là sự tăng trưởng không bình thường và không kiểm soát của tế bào trong lớp biểu mô da che phủ bề mặt của cơ thể. Nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sót sau 5 năm vượt qua 90%.
Theo Giảng viên, Bác sĩ Cao đẳng Y Dược TPHCM cho biết, Ung thư da là một dạng ung thư phổ biến và thường dễ phát hiện. Đây là loại ung thư xuất phát từ biểu mô da, bao gồm nhiều lớp tế bào. Lớp tế bào ở phía dưới da tạo ra ung thư tế bào đáy, trong khi lớp tế bào ở phía trên da tạo ra ung thư biểu mô vảy. Các tuyến phụ thuộc vào da, như tuyến mồ hôi và tuyến bã, cũng có thể phát triển thành ung thư.
Ung thư da có thể điều trị hiệu quả, đặc biệt nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm.
Nguyên nhân gây ra bệnh ung thư da có thể phân thành các yếu tố sau:
Bức xạ cực tím: Được gây ra bởi tia nắng mặt trời và tia tử ngoại từ các nguồn như đèn cầu quang, đèn hồ quang cacbon, thủy ngân, thạch anh lạnh... Đây là yếu tố nguy cơ chính gây ra ung thư da. Da tiếp xúc thường xuyên và kéo dài với tia cực tím mạnh là yếu tố bệnh sinh quan trọng nhất gây ra ung thư da. Người làm ngoài trời như ngư dân, nông dân và công nhân xây dựng thường dễ mắc bệnh ung thư da do tiếp xúc với tia phóng xạ này.
Bức xạ ion hóa: Ung thư da thường phát triển sau 14-15 năm kể từ khi tiếp xúc với bức xạ ion hóa.
Các hội chứng di truyền: Một số hội chứng di truyền có thể tăng nguy cơ mắc ung thư da, bao gồm bệnh xơ da nhiễm sắc, hội chứng tế bào đáy dạng nơ-vi, hội chứng Gardner và hội chứng Torres.
Các bệnh lý da tồn tại từ trước: Một số bệnh lý da như bệnh dày sừng quang hóa, bệnh Bowen và tàn nhang có thể tăng nguy cơ mắc ung thư da.
Nhiễm trùng: Nhiễm virus gây u nhú ở người (HPV: Human papilloma virus) có liên quan trực tiếp đến ung thư da tế bào vảy.
Một số hóa chất gây ung thư da có thể xuất hiện khi da tiếp xúc lâu dài với các chất như nhựa đường, than đá, dầu nhờn, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Trong số các chất này, Arsenic thường gặp nhất, do được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp và y tế và có nồng độ cao trong nước uống ở một số nơi.
Giảng viên Cao đẳng Điều dưỡng – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur cho biết, triệu chứng của ung thư da có thể được mô tả như sau:
Ung thư biểu mô tế bào đáy (thường xuất hiện ở vùng mặt, mũi, má, thái dương):
Ung thư biểu mô tế bào vảy (thường xuất hiện ở vùng da đầu):
Ung thư liên quan đến các tuyến phụ thuộc da, như tuyến mồ hôi và tuyến bã:
Các phương pháp điều trị ung thư da bao gồm:
Phẫu thuật
Tùy theo loại mô bệnh học, vị trí và giai đoạn bệnh, phẫu thuật có thể là phương pháp chính để triệt hạ ung thư da.
Với ung thư tuyến phụ thuộc da, phẫu thuật thường được thực hiện để cắt bỏ u và vét hạch khu vực có di căn.
Tia xạ
Ung thư biểu mô tế bào đáy thường phản ứng tốt với tia xạ, nhưng cần cẩn trọng ở vùng gần mắt và niêm mạc mũi miệng để tránh bỏng.
Xạ trị sau phẫu thuật có thể được thực hiện để ngăn tái phát tại vùng cắt.
Hóa trị
Hóa chất tại chỗ, chẳng hạn như kem 5-FU, có thể được sử dụng để điều trị một số thương tổn tiền ung thư hoặc ung thư biểu mô đáy nhỏ.
Hóa trị toàn thân có thể được thực hiện trước hoặc sau phẫu thuật, đặc biệt đối với ung thư da có độ ác tính mô học cao để làm thoái lui khối u và hạch.
Điều trị tái phát
Trường hợp tái phát sau phẫu thuật có thể yêu cầu phẫu thuật lặp lại hoặc tia xạ để kiểm soát lại u.
Tái phát sau phẫu thuật ung thư da tế bào vảy hoặc tuyến phụ thuộc da thường có tiên lượng xấu, và có thể cần phẫu thuật rộng hơn hoặc xạ trị sau phẫu thuật.
Trong trường hợp tái phát của hạch, khối hạch thường được cắt bỏ và sau đó xạ trị.
Trên đây là những thông tin tham khảo về ung thư da, hi vọng qua bài viết này bạn sẽ có một cái nhìn tổng quan hơn về căn bệnh này.
Nguồn: Tin tức Y Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur