Trong trường hợp suy hô hấp cấp tính, không có sự trao đổi bình thường giữa oxy và CO2 trong phổi. Điều này dẫn đến thiếu oxy cho tim, não và cơ thể, gây ra các triệu chứng như khó thở, da xanh tái, và rối loạn tri giác.
Trong trường hợp suy hô hấp cấp tính, không có sự trao đổi bình thường giữa oxy và CO2 trong phổi. Điều này dẫn đến thiếu oxy cho tim, não và cơ thể, gây ra các triệu chứng như khó thở, da xanh tái, và rối loạn tri giác.
Theo Dược sĩ CK1 Lý Thanh Long – Giảng viên Cao đẳng Y Dược TPHCM cho biết, suy hô hấp là tình trạng giảm cấp tính chức năng hô hấp hoặc chức năng trao đổi khí của phổi. Suy hô hấp cấp được định nghĩa là sự rối loạn nặng nề của quá trình trao đổi oxy trong máu, khi áp lực oxy máu (PaO2) < 60 mmHg và áp lực CO2 máu (PaCO2) có thể bình thường, giảm hoặc tăng.
Suy hô hấp cấp có hai loại:
Sự mất bù cấp của suy hô hấp mạn có thể do nhiều nguyên nhân như nhiễm trùng phế quản-phổi, tắc nghẽn động mạch phổi, và tràn khí màng phổi. Bệnh phổi nhiễm trùng gây suy hô hấp cấp khi lan rộng ra hoặc phế quản viêm do vi khuẩn, lao kê, hoặc virus ác tính. Phù phổi cấp có nguồn gốc từ nhiều nguyên nhân khác nhau như bệnh tim, truyền dịch quá nhiều, và nguyên nhân thần kinh như chấn thương sọ não, u não, hay viêm não. Phù phổi tổn thương có thể do cúm ác tính, chất độc, sốc nhiễm trùng, tắc mạch do mỡ, đuối nước, hoặc hội chứng Mendelson. Hen phế quản nặng thường do điều trị không đúng cách hoặc không kịp thời, có thể cũng do cơ địa bệnh nhân dễ bị hen phế quản nặng. Tắc nghẽn phế quản cấp ít gặp, có thể do dị vật ở trẻ em và do u, xẹp phổi ở người lớn.
Thần kinh trung ương có thể bị ảnh hưởng do:
Theo Thầy Nguyễn Văn Đạt – Giảng viên Cao đẳng Điều dưỡng TPHCM cho biết thêm, tắc nghẽn thanh - khí quản có thể do:
Nhịp thở: Thiếu oxy và/hoặc tăng CO2 máu khiến bệnh nhân thở nhanh, thường khoảng 40 lần/phút, kèm theo sự co kéo của cơ hô hấp, dễ nhìn thấy ở hõm trên xương ức và các khoảng cạnh sườn; ở trẻ em có thể có cánh mũi phập phồng. Trong các trường hợp có tổn thương do liệt (như viêm đa rễ thần kinh, liệt tứ chi do tổn thương tủy sống, hoặc bệnh nhược cơ nặng...), tần số thở thường giảm, biên độ hô hấp yếu, bệnh nhân không ho được, gây ra ứ đọng đờm dãi trong phế quản.
Tím tái: Đây là triệu chứng chủ yếu, xuất hiện ở môi, đầu ngón tay, chân, mặt hoặc toàn thân. Tím rõ hơn khi hemoglobin máu cao (trong suy hô hấp mạn); không thấy rõ tím khi thiếu máu nặng. Tím thường kèm theo tăng khí carbonic máu, và có thể đi kèm với giãn mạch ở đầu chi, đôi khi vã mồ hôi.
Triệu chứng tuần hoàn: Mạch nhanh, có cơn tăng huyết áp và tăng cung lượng tim, có thể có loạn nhịp trên thất; trong giai đoạn sau, huyết áp có thể hạ.
Triệu chứng suy tim phải cấp tính: Thường gặp trong đợt cấp của suy hô hấp mạn. Triệu chứng chính là: gan to, phản hồi gan tĩnh mạch cổ (+), nặng hơn là tĩnh mạch cổ nổi tự nhiên (ở tư thế 45 độ), những triệu chứng này giảm khi suy hô hấp cấp giảm.
Triệu chứng thần kinh tâm thần: Chỉ gặp trong suy hô hấp cấp nặng; bao gồm trạng thái kích thích, vật vã, và rối loạn tri giác như lơ mơ hoặc hôn mê.
Không phải tất cả các nguyên nhân gây suy hô hấp cấp tính đều có thể được ngăn ngừa, như trường hợp suy hô hấp do chấn thương. Tuy nhiên, trong các trường hợp suy hô hấp do viêm phổi và một số bệnh liên quan đến đường hô hấp khác, mỗi người có thể thực hiện một số biện pháp phòng tránh sau để bảo vệ phổi của mình:
Suy hô hấp cấp tính là một tình trạng y tế nghiêm trọng có nhiều nguyên nhân khác nhau. Các triệu chứng bao gồm nhầm lẫn, thở nhanh, khó thở, và xanh tái. Bệnh nhân cần nhập viện ngay khi có bất kỳ dấu hiệu đầu tiên của suy hô hấp để ngăn ngừa tình trạng bệnh trở nên nặng hơn.
Nguồn: Tin tức Y Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur