Canh châu là một loại cây thường được trồng để tạo điểm nhấn trong cảnh quan. Trong dân gian, lá của cây Canh châu thường được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với lá vối để hãm nước uống thay vì trà. Việc này có tác dụng giải khát và đề phòng bệnh sởi.
Canh châu là một loại cây thường được trồng để tạo điểm nhấn trong cảnh quan. Trong dân gian, lá của cây Canh châu thường được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với lá vối để hãm nước uống thay vì trà. Việc này có tác dụng giải khát và đề phòng bệnh sởi.
Cùng Dược sĩ Tôn Thảo Vy - Giảng viên tại Cao đẳng Dược TPHCM cùng tìm hiểu thông tin qua bài viết sau đây:
Canh châu, còn được biết đến với các tên khác như Sơn minh trà, Kim châu, Tước mai đằng, là một loại cây nhỏ có dạng bụi và phân cành nhiều. Cây này có tên khoa học là Sageretia theezans (L.) Brongn và thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Đặc điểm của Canh châu bao gồm cành non mềm, màu xám nhạt, có lông tơ, và cành già nhẵn, màu xám nâu, có gai do biến đổi từ các cành nhỏ. Lá của nó mọc so le, có hình bầu dục hoặc hình trái xoan, có kích thước từ 2 đến 10cm dài và từ 0,8 đến 5cm rộng, với gốc tròn và đầu tù hơi nhọn, mép lá có răng cưa nhỏ. Mặt trên của lá sẫm màu, trong khi mặt dưới có màu nhạt và có gân nổi rõ.
Lá mọc so le, hình bầu dục
Cụm hoa của Canh châu thường mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá, với mỗi bông thường chứa từ 1 đến 4 cài hoa màu trắng. Lá bắc có hình tam giác và có lông, đài hoa có hình chén. Quả của cây nhỏ, hình cầu, màu đen hoặc tím nhạt và toàn bộ cây thường có lông nhỏ.
Về phân bố sinh thái, Canh châu thích ánh sáng và ẩm ướt, thường mọc trong các lùm bụi ven đồi, bờ ruộng hoặc xung quanh các làng. Cây này được trồng và mọc hoang ở các khu vực thuộc miền Bắc và miền Trung của Việt Nam, ít gặp ở miền Nam. Ngoài ra, loài cây này cũng phân bố phổ biến ở miền Nam Trung Quốc.
Canh châu có hương vị đắng nhẹ, hơi chua và tính mát, có tác dụng lưu thông huyết khí, làm mát cơ thể, và giúp thanh lọc độc tố.
Quả của Canh châu có thể ăn được và thường được sử dụng như một loại trái cây thông thường. Cành, lá và rễ của cây này có thể được thu hái quanh năm, sau đó phơi khô hoặc sấy để sử dụng dần. Theo quan điểm dân gian, việc thu hái rễ nên được thực hiện vào mùa đông, trong khi lá và cành thì nên được thu hái vào mùa xuân hoặc mùa hạ.
Canh châu có tính mát, vị đắng nhẹ và chua
Nghiên cứu về Canh châu đã khám phá ra rằng cây này chứa nhiều hoạt chất quý. Cụ thể, trong dược liệu của nó, các thành phần như friedelin, acid syringic, daucosterol, acid glucosyringic và taraxasterol đã được xác định.
Cây Canh châu đã được sử dụng từ rất lâu trong y học truyền thống ở nước ta. Trong truyền thống y học, người ta sử dụng cây này, gọi là Xích chu đằng, để chữa trị vết thương. Theo quan điểm y học cổ truyền, Canh châu được sử dụng để điều trị nhiều vấn đề khác nhau như sai khớp, sưng mặt và mụn nhọt, ban sởi, tắc tia sữa, loét, bong gân.
Liều lượng khuyến nghị là 10 - 20g sắc uống mỗi ngày.
Ngoài ra, Canh châu cũng có thể được sử dụng ngoài da, lá tươi có thể nấu thành nước tắm hoặc dùng để đắp.
Quả của cây này có thể ăn được, có vị hơi chua ngọt. Lá có thể sử dụng độc lập hoặc kết hợp với lá vối để nấu nước uống thay cho trà, có thể sử dụng hàng ngày. Nước hãm từ lá Canh châu có tác dụng giải khát và giúp đề phòng bệnh sởi.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người bị tỳ vị hư hàn và đại tiện lỏng nên tránh sử dụng Canh châu. Phụ nữ mang thai cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ hoặc nhân viên y tế trước khi sử dụng.
Một số phương pháp sử dụng Canh châu trong y học dân gian đã được ghi nhận, tuy nhiên hiện tại, nghiên cứu về dược liệu này vẫn còn hạn chế, chủ yếu được áp dụng trong cộng đồng. Dưới đây là một số bài thuốc dân gian sử dụng Canh châu:
Chữa các tình trạng sưng mặt, ban da, bị bệnh sởi, sốt ho khát nước:
Cây Canh châu hỗ trợ trị bệnh sởi
Chữa sởi chậm mọc:
Chữa lở ngứa, mụn nhọt:
Chữa vết thương lâu liền miệng:
Bài thuốc trị trẻ nhỏ lên canh châu:
Nấu dạng nước trà giúp giải khát và phòng ngừa bệnh sởi:
Dùng Canh châu và Lá vối, sắc lấy nước uống hàng ngày.
Canh châu có vị đắng và tính mát, có nhiều ứng dụng trong việc phòng ngừa sởi, chữa lở ngứa mụn nhọt, vết thương lâu lành miệng… Tuy là thảo dược tự nhiên, nhưng cần tuân thủ liều lượng và thời gian sử dụng. Trước khi sử dụng, nên tham khảo ý kiến của chuyên gia y tế để đạt hiệu quả tốt nhất.
Nguồn: Tin tức Y Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur