Cây Thành ngạnh, với tên khoa học là Cratoxylom prunifolium Dyer, còn được biết đến với nhiều cái tên khác như Lành ngạnh, Ngành ngạnh, Cây đỏ ngọn, Vàng la, Cúc lương... và nằm trong họ Nọc sởi (Hypericaceae).
Cây Thành ngạnh, với tên khoa học là Cratoxylom prunifolium Dyer, còn được biết đến với nhiều cái tên khác như Lành ngạnh, Ngành ngạnh, Cây đỏ ngọn, Vàng la, Cúc lương... và nằm trong họ Nọc sởi (Hypericaceae).
Theo Đông y, Cây Thành ngạnh có vị đắng chát và tính mát, được cho là có khả năng thanh nhiệt, giải độc, và có tác dụng lợi tiểu. Cùng khám phá thêm về loài cây này qua bài viết dưới đây được chia sẻ bởi Dược sĩ, cô Tôn Thảo Vy, giảng viên tại Cao đẳng Dược TPHCM - Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur
Thành ngạnh có kích thước cây từ nhỏ đến lớn. Chiều cao trung bình của cây dao động từ 6 đến 12 mét, thường có gai ở gốc. Cành non thường có lông tơ màu vàng nhạt, trong khi cành già thì mịn màng và màu xám.
Cây thành ngạnh là loài cây ưa sáng
Lá thường mọc đối, có hình dạng mác hoặc bầu dục, gốc thuôn và đầu nhọn, dài khoảng từ 6 đến 11 centimet. Mặt trên của lá thường có lông nhỏ hơn so với mặt dưới; lá non có thể màu hồng đỏ và có lông tơ, và có cuống ngắn.
Hoa thường màu hồng nhạt, có thể mọc riêng lẻ hoặc thành chùy nhỏ, thường có 4 đến 6 bông hoa, xuất hiện ở kẽ lá. Lá đài thường có lông ở mặt ngoài, với cánh hoa có hình khía răng; số lượng nhị nhiều; bầu hình nón. Quả thường là nang, có chiều dài khoảng 1,5 centimet.
Thành ngạnh thường ra hoa và quả từ tháng 5 đến tháng 7.
Phân bố sinh thái của cây Thành ngạnh rộng khắp nhiều nơi, có thể tìm thấy cây ở hầu hết các nước ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các tỉnh phía nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây này phổ biến ở hầu hết các tỉnh thuộc vùng núi thấp và trung du.
Thành ngạnh ưa ánh sáng và chịu được hạn cao. Hệ thống rễ mạnh mẽ, thường đi sâu xuống đất đến hơn 1 mét, giúp cây chịu được đất khô cằn và đá. Cây thường ra hoa và quả hàng năm, tự tái sinh chủ yếu từ hạt. Ngoài việc được sử dụng trong y học, phần thân và cành của cây cũng thường được sử dụng làm củi.
Thành ngạnh có thể sử dụng lá, vỏ thân và rễ, có thể thu hái quanh năm và sử dụng tươi hoặc sấy khô.
Trong quá trình phân tích lá của cây Thành ngạnh thu hái vào tháng 1 tại Việt Nam, phát hiện có tỷ lệ tannin từ 3,9% đến 4,7% và flavonoid từ 0,51% đến 0,56%. Các hợp chất như hyperosid, mangiferin và isomangiferin được tìm thấy nhiều hơn trong lá so với cành.
Cao của cây Thành ngạnh được biết đến với khả năng kích thích hệ thần kinh, đặc biệt là hệ thần kinh thực vật, có thể thấy qua việc tăng nồng độ catecholamine trong máu và tăng độ sóng beta nhẹ trên sóng não của thỏ sau khi uống thuốc.
Dịch chiết từ cây Thành ngạnh có tác dụng tăng cường khả năng hình thành phản xạ có điều kiện và làm giảm phản xạ trên chuột nhắt trắng, điều này có thể dẫn đến tăng sự phấn khích và giảm sự ức chế có điều kiện trên động vật thử nghiệm.
Theo quan điểm Đông y, Thành ngạnh có vị đắng chát và tính mát, có khả năng thanh nhiệt, giải độc và tăng tiểu tiện.
Theo kinh nghiệm thực tế, phụ nữ sau khi sinh thường sử dụng lá cây này để nấu nước uống. Liều lượng hàng ngày thường là từ 10 đến 30 gram. Ngoài ra, có thể kết hợp với một ít lá vối để cải thiện tiêu hóa và tạo hương vị cho thức ăn; hoặc phối hợp với lá ngải hoa vàng để uống trong trường hợp sốt, mồ hôi, và mệt mỏi. Cũng được sử dụng để điều trị cảm sốt, viêm ruột, tiêu chảy và viêm họng, hoặc khi mất giọng, thường được chế biến thành nước sắc từ lá hoặc vỏ cây.
Thành ngành giúp thanh nhiệt
Lá của cây lành ngạnh được nghiền nát, sau đó trộn với nước gạo đặc và đắp lên vết bỏng.
Lá của cây lành ngạnh (20 gram) và rễ mía dò (10 gram) được băm nhỏ, sau đó sắc với 400ml nước cho đến khi còn 100ml, uống hai lần trong ngày.
Lá non của cây lành ngạnh được sắc và uống thay thế cho chè.
Ngọn non của cây lành ngạnh (60 gram), cỏ nhọ nồi (50 gram), vôi bột (40 gram) và hạt cau già (30 gram) được phơi khô, sau đó tán bột và rây thành bột mịn. Rắc lên vết thương sau khi đã phủ một lớp gạc mỏng. Nếu vết thương có mủ, rắc nhiều bột để hút mủ, giúp vết thương khô ráo, sạch sẽ và nhanh chóng lành.
Lá non chữa chứng tiểu ít
Sử dụng 30 gram của cây lành ngạnh và 15 gram hoa hòe để pha vào trà ấm, sau đó hãm trong khoảng 15 phút trước khi uống. Việc uống thường xuyên trà từ loại dược liệu này giúp cải thiện tình trạng sức khỏe.
Lấy 15 gram của cây lành ngạnh và 15 gram ngải hoa vàng sau khi đã rửa sạch, sau đó đem đun sôi trong 500ml nước cho đến khi nước thuốc còn lại 350ml. Sau đó, lọc và chia thành 2 lần uống.
Sử dụng một ít vỏ của cây lành ngạnh tươi hoặc khô, rửa sạch và sắc với 2 bát nước trước khi uống. Ngoài ra, lá non của loại cây này cũng có thể được hãm nước nóng và sử dụng hàng ngày để giúp điều trị táo bón và điều hòa kinh nguyệt không đều.
Hỗ trợ ăn ngon, cải thiện tiêu hóa và phục hồi sức khỏe cho phụ nữ sau sinh
Dùng 15 gram lá của cây lành ngạnh kết hợp với 15 gram lá vối, sau đó đem sắc trong 1 lít nước sôi và hãm trong khoảng 15 phút. Uống nước này mỗi ngày để giúp cải thiện sự tiêu hóa, giảm cảm giác khó chịu và hỗ trợ tăng cường sức khỏe cho phụ nữ sau khi sinh.
Nguồn: Tin tức Y Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur