Năng lượng vào cơ thể chúng ta dưới dạng hóa năng của thức ăn. Tất cả các loại thức ăn nói chúng đều chứa 6 chất dinh dưỡng: protid, lipid, glucid, vitamin, muối khoáng, nước;
Năng lượng vào cơ thể chúng ta dưới dạng hóa năng của thức ăn. Tất cả các loại thức ăn nói chúng đều chứa 6 chất dinh dưỡng: protid, lipid, glucid, vitamin, muối khoáng, nước;
Trong đó chỉ có 3 chất cung cấp năng lượng cho cơ thể: protid, lipid, và glucid gọi là những chất sinh năng lượng. Sau khi chuyển hóa thành các dạng hấp thu, cơ thể sẽ sử dụng chúng để chuyển thành năng lượng cho các quá trình chuyển hóa và các hoạt động sống. Vậy đó là những quá trình gì, hãy cùng Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur tìm hiểu qua bài viết sau đây
– Giá trị năng lượng của mọi thức ăn phụ thuộc vào hàm lượng của 3 chất dinh dưỡng sinh năng lượng.
– Giá trị năng lượng của một số thức ăn thông thường như sau:
Là năng lượng sinh công hóa học. Hóa năng là năng lượng tồn tại trong các liên kết hóa học, khi muốn bẻ gãy hoặc thay đổi một liên kết hóa học theo hướng phân giải sẽ giải phóng ra năng lượng và khi muốn tổng hợp nên một liên kết hóa học mới đòi hỏi phải cung cấp năng lượng. Như vậy, việc sinh công hóa học xảy ra khắp mọi nơi trong cơ thể là quá trình phân giải hoặc tổng hợp vật chất. Hóa năng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như:
Là năng lượng sinh công cơ học. Động năng là năng lượng để di chuyển vật chất từ vị trí này đến vị trí khác. Máu vận chuyển trong hệ tuần hoàn, khí chuyển động trong đường dẫn khí, thức ăn chuyển động trong ống tiêu hóa… đều được thực hiện nhờ động năng và năng lượng cho sự chuyển động đó được cung cấp từ ATP. Như vậy, hóa năng của chất giàu năng lượng là ATP đã được chuyển thành động năng cho mọi sự chuyển động (di chuyển) của vật chất.
Là năng lượng sinh công từ dòng điện. Nhờ có điện năng và sự chênh lệch điện thế màng tế bào, chúng ta có thể ghi được các dòng điện sinh học như điện tim, điện não, điện cơ,….
Các phản ứng chuyển hóa trong cơ thể như là sự oxy hóa thức ăn đều phát sinh ra nhiệt. Nhiệt năng bảo đảm cho thân nhiệt ổn định nhờ đó các phản ứng chuyển hóa diễn ra bình thường.
Ngoài ra, nhiệt năng còn là dạng thoái hóa năng lượng cần được thải ra ngoài cơ thể. Đơn vị để đo nhiệt năng là calori (cal) là năng lượng cần thiết để nâng nhiệt độ của 1gam nước từ 15 độ C lên 16 độ C.
Đây là năng lượng cần cho cơ thể tồn tại bình thường, không thay đổi thể trọng, không sinh sản bao gồm:
3.1.1 Chuyển hóa cơ sở
Chuyển hóa cơ sở thay đổi theo:
Bệnh lý:
3.1.2 Vận cơ
– Trong năng lượng tiêu hao do vận cơ, khoảng 25% chuyển thành công co cơ, 75% tỏa ra dưới dạng nhiệt.
– Người ta thường tính năng lượng tiêu hao trong vận cơ theo kcal/kg thể trọng/1 phút.
– Tiêu hao năng lượng trong vận cơ thay đổi theo các yếu tố sau:
3.1.3 Điều nhiệt
3.1.4 Tiêu hóa
Tiêu hóa thức ăn để cung cấp năng lượng cho cơ thể, nhưng bản thân việc tiêu hóa thức ăn cũng cần năng lượng. Tiêu hao năng lượng cho tiêu hóa tùy theo từng chất dinh dưỡng:
Tiêu hóa vừa cung cấp năng lượng vừa tiêu hao năng lượng
3.3.1 Thời kỳ mang thai:
Thời kỳ mang thai, mẹ cần năng lượng cho tạo thai, thai phát triển, tạo các phần nuôi thai, tăng
khối lượng tuần hoàn, phát triển tuyển vú, phát triển khung chậu… Tổng năng lượng tiêu hao cho một chu kỳ mang thai khoảng 60.000– 80.000 kcalo.
3.3.2 Thời kỳ nuôi con:
Theo giảng viên Cao đẳng Điều dưỡng cho biết: Thời kỳ nuôi con, người mẹ tiết sữa mỗi ngày khoảng 500 – 600ml sữa. Năng lượng tiêu hao cho bài tiết sữa mỗi ngày khoảng 500 kcalo.